Được đánh giá là ngành kinh tế quan trọng, nhưng đến nay ngành công nghiệp điện tử (CNĐT) Việt Nam chưa có sản phẩm nào mang đặc trưng “Made in Vietnam”. Nguyên nhân chính do CNHT ngành CNĐT Việt Nam còn quá non yếu, năng lực cạnh tranh kém.
Yếu kém và mất cân đối
Toàn ngành CNĐT hiện có hơn 300 DN, trong đó 1/3 là các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), chủ yếu tập trung tại Hà Nội, TPHCM và một số tỉnh lân cận của 2 TP này. Hoạt động chính của CNĐT Việt Nam hiện nay là lắp ráp sản phẩm điện tử gia dụng, với 67% tổng vốn đầu tư của ngành (sản xuất linh phụ kiện điện tử chiếm 21,5% và điện tử chuyên dùng 11,5%), dẫn tới mất cân đối cơ cấu sản phẩm điện tử gia dụng và điện tử chuyên dùng (80% và 20%).
Linh phụ kiện điện tử sản xuất trong nước đang ngày càng gia tăng, nhưng kém phát triển, tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm điện tử rất thấp, bình quân 13%, chủ yếu là bao bì đóng gói với các chi tiết nhựa, kim loại đơn giản. Mặc dù, đã từng có các nhà máy sản xuất vật liệu và linh kiện điện tử xuất khẩu sang Đông Âu trước những năm 1990, nhưng đến nay, DN Việt Nam hầu như không tham gia sản xuất vật liệu điện tử.
Nguồn cung cấp linh kiện điện tử và các sản phẩm phụ trợ cho CNĐT chủ yếu từ nhập khẩu và mới được sản xuất ở Việt Nam trong mấy năm gần đây, phần lớn do DN FDI thực hiện. Bao gồm các sản phẩm chính là mạch in, đèn hình tivi; đế mạch in; tụ điện các loại; cuộn cao áp, cuộn cảm, cuộn lái tia; các chi tiết nhựa, chi tiết cơ khí cho lắp ráp đèn hình; các loại ăng-ten, các chủng loại bao gói (thùng, xốp chèn)...
Các DN Việt Nam vẫn chưa cung cấp được các chi tiết điện tử đặc thù cho CNĐT. Tỷ lệ nội địa hóa của lắp ráp tivi trung bình khoảng 40%; các sản phẩm thuộc nhóm gia dụng (máy giặt, tủ lạnh, điều hòa) khoảng 35%; nhóm nghe nhìn khoảng 30%, cá biệt có các sản phẩm gia dụng đạt đến 60-70% nội địa hóa ở Việt Nam, như tủ lạnh và điều hòa nhiệt độ.
Dù vậy, nhưng các DN FDI vẫn không thể tìm thấy các linh phụ kiện có giá trị cao ở thị trường nội địa, như linh kiện điện tử, khuôn mẫu, các hoạt động gia công kim khí như định hình, cán, mạ... Công ty Fujitsu Việt Nam là DN FDI có kim ngạch xuất khẩu hàng năm khoảng nửa tỷ USD, hiện vẫn phải nhập khẩu 100% linh kiện phụ tùng và nguyên vật liệu từ nước ngoài; Công ty Canon, mặc dù đã đầu tư gần 300 triệu USD xây dựng các nhà máy in rất lớn ở Hà Nội và Bắc Ninh, cũng chỉ tìm được 1 nhà cung cấp linh kiện Việt Nam, còn hơn 30 nhà cung cấp phụ tùng khác là 100% vốn FDI... Đó là những thí dụ sinh động, cho thấy năng lực sản xuất linh kiện điện tử còn rất yếu ở Việt Nam.
Điểm đáng nói là, tuy đạt tỷ lệ nội địa hóa khoảng 70% theo số lượng linh kiện, nhưng nếu tính theo giá trị chỉ đạt 30%. Dung lượng thị trường nội địa của các sản phẩm điện tử gia dụng dù phát triển khá nhanh, nhưng con số tiêu thụ tuyệt đối vẫn còn nhỏ so với các nước ASEAN. Sự yếu kém của CNHT nội địa khiến nhiều nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo có xu hướng ngại đầu tư vào Việt Nam vì buộc phải nhập khẩu hầu hết nguyên vật liệu, linh phụ kiện.
DN phải tự cứu mình
Việc chưa quan tâm phát triển CNHT vừa làm mất nhiều cơ hội thu hút đầu tư FDI, vừa hạn chế sự phát triển khoa học công nghệ, không chỉ riêng ngành CNĐT, mà là tất cả các ngành sản xuất trong nước. Thực trạng này còn dẫn tới nguy cơ là các DN lắp ráp, sản xuất sản phẩm cuối cùng có thể rút khỏi thị trường Việt Nam do không có nguồn cung linh kiện, phụ tùng tại chỗ.
Điều này càng đòi hỏi ngành CNHT phải nhanh chóng hình thành và phát triển. "Muốn làm được như vậy, Chính phủ phải tạo ra môi trường kinh doanh tốt, chính sách phát triển hợp lý, các DN phải thường xuyên cải thiện sản xuất, kỹ thuật, cung cấp những sản phẩm được thị trường chấp nhận” - ông Yonemura Noriyuki, chuyên gia chính sách công nghiệp - Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản, tham vấn.
Để phát triển CNHT trong ngành CNĐT, trước hết Chính phủ cần xây dựng những kế hoạch trung và dài hạn tổng thể để phát triển đồng bộ ngành CNĐT, trong đó có chính sách ưu đãi và hỗ trợ phát triển CNHT đủ mạnh.
Vấn đề cần được ưu tiên hàng đầu là khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào CNĐT, nhằm thu hút mọi nguồn lực tài chính; xây dựng cơ chế hoạt động của các tổ chức tài chính để DNNVV có thể dễ dàng tiếp cận được với nguồn vốn vay dài hạn cho đầu tư phát triển; thúc đẩy liên kết giữa các DN trong nước với DN FDI sản xuất phụ trợ và các tập đoàn đa quốc gia. Muốn thu hút những nhà lắp ráp các sản phẩm công nghệ cao, nhất thiết cần phải có những DNNVV sản xuất chi tiết, linh kiện ở trình độ công nghệ cao.
Do vậy, chúng ta phải thúc đẩy đổi mới công nghệ với phương án hợp lý, khai thác năng lực nghiên cứu tư vấn - thiết kế hiện có, hoàn thiện môi trường pháp lý cho công tác nghiên cứu, tạo dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển khoa học công nghệ ngành CNĐT. Bên cạnh đó cần xã hội hóa công tác đào tạo, xây dựng các trung tâm đào tạo, các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ cho các DNNVV; tăng cường đào tạo lực lượng cán bộ kỹ thuật có trình độ cao.
Ngoài ra cần tăng cường mở rộng thị trường, bao gồm thị trường trong nước, khu vực và thế giới; tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tổ chức hệ thống mạng lưới đại lý tiêu thụ sản phẩm, các dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng kỹ thuật, sửa chữa sau bảo hành và cung ứng phụ tùng vật tư được xây dựng đồng bộ và rộng rãi.
Bên cạnh nhiều giải pháp, trước hết mỗi DN phải tự cứu mình, tránh tình trạng trông chờ vào Chính phủ, vào “bầu sữa Nhà nước”. Chỉ khi các DN tự tin, tìm hướng phát triển phù hợp với xu hướng chuyên môn hóa và toàn cầu hóa, khi đó ngành có lợi thế tiềm năng như CNĐT mới đóng vai trò thực sự trong sự phát triển chung của nền kinh tế của Việt Nam.
TS. Trần Quang Hùng