Hàng loạt DN ngành giấy Việt Nam đang đứng trước lo ngại sẽ chịu “vạ lây” bởi các chính sách siết chặt quản lý nhập khẩu phế liệu được ban hành thời gian vừa qua và sắp tới đây.
Phát biểu tại hội thảo “Ngành sản xuất giấy Việt Nam: Giải pháp chính sách hướng tới phát triển bền vững” do Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam (VPPA) phối hợp cùng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức ngày 16/10, các DN ngành giấy cho rằng các quy định được ban hành đột ngột khiến DN vô cùng bị động.
Chính sách đột ngột, DN lao đao
Ông Phạm Đình Thưởng, chuyên gia phân tích chính sách cho biết, nhiều DN ngành giấy đang lao đao do tác động từ Chỉ thị số 27/CT-TTg về một số giải pháp cấp bách tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất. Mặc dù được ban hành ngày 17/9/2018, song thực tế là ngay từ thời điểm giữa năm, hoạt động nhập khẩu phế liệu phục vụ cho sản xuất nói chung đã bị siết chặt. Vì vậy nhiều DN sản xuất giấy đã nhập hàng về cảng nhưng không thể thông quan, chi phí lưu công tới nay đã lên đến hàng trăm tỷ đồng.
Ông Nguyễn Văn Hiện, Tổng giám đốc Công ty giấy Việt Trì bức xúc cho biết, mặc dù các nguyên liệu mà DN này nhập khẩu không nằm trong đối tượng bị siết, song cơ quan quản lý lại thắt chặt đồng loạt. Vì vậy, giấy phép nhập khẩu của công ty này đã hết hạn từ ngày 15/7, song đến nay đã qua 3 tháng vẫn chưa được cấp lại để nhập khẩu nguyên liệu phục vụ cho sản xuất.
Về lâu dài, một văn bản khác khiến các DN ngành giấy lo ngại sẽ chặn đường sản xuất của họ, đó là dự thảo sửa đổi Quyết định 73/2014/QĐ-TTg quy định danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất. Theo đó, sản phẩm giấy hỗn hợp đang nằm trong tầm ngắm của cơ quan quản lý nhằm loại bỏ khỏi danh mục được phép nhập khẩu.
Các DN cho rằng, việc siết chặt quản lý phế liệu là cần thiết khi có một số DN đã lợi dụng kẽ hở trong quản lý nhập khẩu phế liệu cho sản xuất để nhập rác vào Việt Nam, gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, một số nhóm phế liệu giấy như giấy hỗn hợp vẫn là nguyên liệu sản xuất quan trọng của các ngành công nghiệp tái chế. Nếu các sản phẩm này bị đưa ra khỏi danh mục được phép nhập khẩu trong tương lai gần, sẽ là chặn đường sản xuất của DN trong ngành.
Ông Phạm Đình Thưởng lưu ý rằng, việc siết chặt quản lý đột ngột khiến DN lâm vào thế bị động. Nhà máy cần vận hành hàng ngày nhưng nguyên liệu cần thiết lại không thể có khiến hoạt động sản xuất đình trệ. Việc này cũng sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền đến một chuỗi các ngành công nghiệp khác như ngành công nghiệp bao bì, các ngành phục vụ xuất khẩu…
Cân nhắc cẩn trọng
Theo VPPA, nhu cầu giấy của Việt Nam trong thời gian tới có mức tăng trưởng từ 8-10%/năm, hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu gần 2 triệu tấn giấy cho nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng và cho sản xuất. Riêng đối với giấy bao bì, nhu cầu sử dụng cho sản phẩm tiêu thụ trong nước và xuất khẩu có mức tăng trưởng rất lớn, vì vậy việc sản xuất đối với giấy bao bì còn nhiều tiềm năng để phát triển. Với nhu cầu lớn đáng kể và vai trò đa dạng đối với kinh tế, sản xuất của ngành giấy dự kiến đóng góp khoảng 1,5% giá trị GDP, kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt trên 1 tỷ USD.
Mặc dù có đóng góp quan trọng và là một phần không thể thiếu của nhiều ngành sản xuất công nghiệp khác, song theo ông Hoàng Trung Sơn, Tổng giám đốc Công ty TNHH Giấy và Bao bì Đồng Tiến, Phó Chủ tịch VPPA, nhưng vì rủi ro gây ô nhiễm môi trường cao, nên ngành giấy thường phải chịu các chính sách quản lý chặt chẽ.
Ông phân tích, giấy tái chế là nguyên liệu đầu vào trọng yếu trong ngành công nghiệp tái chế, một ngành có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Việc tái sử dụng phế liệu giấy làm nguyên liệu mang lại nhiều lợi ích cho DN và xã hội như giảm khai thác tài nguyên, giảm việc chặt phá rừng. Riêng với các DN, việc tận dụng phế liệu để sản xuất giúp giảm chi do giá thành phế liệu thấp, giảm thiểu chi phí để xử lý so với việc phát thải phế liệu ra môi trường. Do đó, trong sản xuất công nghiệp, rất nhiều ngành cũng đã và đang sử dụng phế liệu trong sản xuất, sản phẩm đã qua sử dụng làm nguyên liệu cho sản xuất như ngành nhựa, ngành giấy, ngành thủy tinh, ngành thép…
Bên cạnh đó, hiện nay nguồn cung giấy phế liệu trong nước không thể đáp ứng được nhu cầu sản xuất của các DN, dẫn đến nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất trong nước là rất lớn. Theo ước tính sơ bộ, tỷ lệ thu gom giấy tại Việt Nam chỉ đạt dưới ngưỡng trung bình thế giới, khoảng dưới 40% trước khi đưa vào phân loại và xử lý.
Nhận định về thực tế này, ông Phan Chí Dũng, nguyên Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ, Bộ Công thương chia sẻ, 70% sản lượng giấy của Việt Nam sản xuất từ nguyên liệu là giấy phế liệu, trong đó chỉ gần 40% được thu gom trong nước, còn lại phải nhập khẩu. “Đối với các DN tái chế giấy chuyên nghiệp, có năng lực tái chế tốt, họ rất cần nguồn nguyên liệu giấy và rõ ràng nhập khẩu là một giải pháp bắt buộc trong bối cảnh trong nước không đủ nguyên liệu sản xuất”, ông Dũng khẳng định.
Thực tế này cho thấy, tại Việt Nam, nguyên liệu giấy tái chế và việc nhập khẩu nguyên liệu này vẫn còn gặp nhiều thách thức về mặt quản lý, đặt ra bài toán được – mất giữa sản xuất và môi trường. Ông Phan Chí Dũng cho rằng, bất cứ DN giấy nào khi sử dụng phế liệu hay bất cứ nguồn nguyên liệu nào khác, nhập khẩu hay thu mua trong nước để sản xuất đều có nguy cơ tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường và cần có biện pháp quản lý tốt. “Việc lo ngại nhập khẩu phế liệu sẽ biến Việt Nam thành bãi rác chỉ đúng khi nguyên liệu này không phục vụ cho bất cứ hoạt động sản xuất nào, còn một khi đã là nguyên liệu sản xuất quan trọng, lại là mặt hàng được giao dịch toàn cầu thì cần cẩn trọng xem xét”, ông Dũng bày tỏ.
Chia sẻ với lo ngại của các DN ngành giấy, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban pháp chế VCCI khuyến nghị, Việt Nam cần tham khảo chính sách quản lý nhập khẩu giấy phế liệu của các nước khác, đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế và nhu cầu nội tại để đưa ra được chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, các ý kiến cho rằng cần sớm tiến hành rà soát, chỉnh sửa tiêu chuẩn giấy tái chế đang nhập khẩu vào Việt Nam để được quản lý và cân nhắc như tiêu chuẩn một nguồn nguyên liệu sản xuất, thay vì chịu quản lý như một nguồn phế liệu.
Ngọc Khanh